Pháp luật hiện nay ghi nhận hai phương thức thừa kế: theo di chúc và theo pháp luật. Theo đó, trường hợp người chết mà không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì di sản của người đó để lại sẽ được chia theo pháp luật. Pháp luật hiện hành quy định về chia thừa kế theo pháp luật như thế nào? Sau đây Luật An Trí Việt sẽ phân tích cụ thể về vấn đề này.
Những trường hợp chia thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, không có di chúc
Các trường hợp được coi là không có di chúc bao gồm:
- Người chết không lập di chúc
- Kể từ thời điểm mở thừa kế, di chúc bị thất lạc, di chúc bị huỷ hoại đến mức không thể hiện được đầy đủ và rõ ràng ý chí của người lập di chúc
Trong những trường hợp trên đây, toàn bộ di sản của người chết để lại sẽ chia cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, di chúc không hợp pháp
Khi di chúc không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 630 BLDS năm 2015 và những điều kiện chung của một giao dịch dân sự theo Điều 117 BLDS năm 2015, sẽ bị coi là di chúc không hợp pháp. Di chúc không hợp pháp sẽ không có hiệu lực pháp luật, do vậy sẽ không làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc. Tùy theo phạm vi vi phạm của di chúc để xác định di chúc đó vô hiệu một phần hay vô hiệu toàn bộ.
Di chúc vô hiệu một phần là di chúc chỉ có một phần di chúc không hợp pháp nhưng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực đối với phần còn lại của di chúc.
Di chúc vô hiệu toàn bộ là di chúc có nội dung trái với quy định của pháp luật; di chúc do người không có năng lực chủ thể lập; di chúc vi phạm ý chí tự nguyện; di chúc được lập khi người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt. Trong trường hợp này, toàn bộ di sản của người lập di chúc để lại sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp luật của họ.
Thứ ba, thừa kế theo pháp luật được áp dụng đối với phần di sản không được định đoạt trong di chúc
Nếu người để lại di sản chỉ định đoạt một phần di sản thì phần còn lại sẽ được áp dụng chia cho những người nằm trong hàng thừa kế (trừ khi họ là người bị người lập di chúc chỉ rõ chỉ được hưởng phần di sản theo di chúc hoặc bị truất quyền thừa kế theo di chúc).
Thứ tư, là người thừa kế theo di chúc không còn tồn tại
Nếu toàn bộ những người thừa kế theo di chúc là cá nhân đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc và những tổ chức hưởng di sản theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì toàn bộ di sản được áp dụng quy định về thừa kế theo pháp luật để giải quyết.
Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một hoặc một số cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan đến họ mới được áp dụng quy định về thừa kế theo pháp luật để giải quyết. Phần di sản liên quan đến cá nhân còn sống, tổ chức còn tồn tại vẫn được giải quyết theo di chúc.
Thứ năm, người được chỉ định thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản
Trong trường hợp những người được chỉ định thừa kế theo di chúc thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 mà không rơi vào các trường hợp tại khoản 2 Điều này thì được áp dụng quy định về chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản đáng lẽ họ được hưởng.
Các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 bao gồm:
- Trường hợp thứ nhất: Người thừa kế bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản.
- Trường hợp thứ hai: Người thừa kế vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
- Trường hợp thứ ba: Người thừa kế bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hường.
- Trường hợp thứ tư: Người thừa kế có hành vi lừa dối, cường ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giá mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Thứ sáu, người thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản
Người thừa kế có quyền nhận, có quyền từ chối hưởng di sản của người chết để lại. Phần di sản liên quan đến người từ chối nhận di sản sẽ được áp dụng chia theo pháp luật cho những người thừa kế khác.
Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản thì chỉ phần di sản liên quan đến người này được áp dụng chia theo pháp luật cho những người thừa kế khác. Nhưng nếu toàn bộ những người thừa kế theo di chúc đều từ chối quyền hưởng di sản thì toàn bộ di sản mà người chết để lại sẽ được áp dụng chia theo pháp luật cho những người thừa kế theo pháp luật của người đã chết.
Cách xác định đối tượng được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật
Cách xác định hàng thừa kế
Việc chia thừa kế theo pháp luật được áp dụng theo hàng thừa kế. Hàng thừa kế bao gồm những người được hưởng di sản theo pháp luật trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp. Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm người có quan hệ cùng mức độ gần gũi với người để lại di sản thừa kế và họ sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Cụ thể:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Cần lưu ý: Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó (đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản).
Thừa kế thế vị
Theo nguyên tắc chung, người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, tuy nhiên pháp luật có quy định về trường hợp nếu con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống. Việc thừa kế này được gọi là thừa kế thế vị.
Cụ thể, Điều 652 BLDS năm 2015 quy định như sau “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
Theo quy định trên thì Thừa kế thế vị là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ đẻ nhận di sản thừa kế từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cụ nội, cụ ngoại nếu bố mẹ đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với những người này. Phần di sản mà người con được hưởng trong di sản của người để lại thừa kế nói trên là phần di sản mà bố hoặc mẹ của họ được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Như vậy, thừa kế thế vị chỉ xảy ra ở hàng thừa kế thứ nhất. Trong hàng thừa kế thứ nhất, người thừa kế thế vị được hưởng di sản chỉ có thể là cháu hoặc chắt.
Trên đây là tư vấn của Luật An Trí Việt về Quy định thừa kế theo pháp luật. Quý khách có nhu cầu tư vấn thêm về Quy định về thừa kế theo pháp luật hoặc các vấn đề pháp lý có liên quan vui lòng liên hệ qua tổng đài 0913 169 599 / 0968 589 845 hoặc gửi thư đến hòm thư điện tử antrivietlaw@gmail.com để được hỗ trợ kịp thời và nhanh chóng nhất.